Năm 1929, Lý Tự Trọng về nước hoạt động với nhiệm vụ thành lập đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh và làm liên lạc cho xứ uỷ Nam Kì với Đảng Cộng sản Việt Nam. Anh làm liên
lạc cho các đồng chí cộng sản ở nước ngoài qua các chuyến tàu đến cảng Sài Gòn.
Ngày 09/02/1931, trong buổi kỷ niệm một năm cuộc bạo động Yên Bái, tên thanh
tra mật thám Lơ Gơrăng chực nhảy tới bắt người đang giương cờ và diễn thuyết,
Lý Tự Trọng đã nhảy ra bắn chết Lơ Gơrang. Anh bị địch bắt, bị tra tấn hết sức
dã man.
Năm
1931, một ngày cuối xuân, thực dân Pháp đưa Lý Tự Trọng từ bót Catina đến tòa
án để kết án anh tội tử hình. Người thanh niên cộng sản mới 17 tuổi ấy đã lấy
vành móng ngựa để làm diễn đàn lên án bọn thống trị, kêu gọi nhân dân đứng dậy
đấu tranh. Luật sư bào chữa cho anh xin tòa mở lượng khoan hồng vì anh chưa đến
tuổi thành niên, đã hành động không có suy nghĩ. Lý Tự Trọng dõng dạc nói: “Tôi
hành động không phải là không suy nghĩ. Tôi hiểu việc tôi làm. Tôi làm vì mục
đích Cách mạng. Tôi chưa đến tuổi thành niên thật, nhưng tôi đủ trí khôn để
hiểu rằng con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường Cách mạng và không
thể là con đường nào khác. Tôi tin rằng nếu các ông suy nghĩ kĩ thì các ông
cũng cần phải giải phóng dân tộc, giải phóng những người cần lao như tôi.” Chánh
án, một tên quan cai trị thực dân tuyên án xử tử Anh. Lý Tự Trọng vẫn bình
tĩnh. Tên thực dân Pháp hỏi anh có ăn năn gì không; Lý Tự Trọng đứng trước vành
móng ngựa, mặt thẳng phía trước chỉ nói một câu:”Không ăn năn gì cả!”
.
Ở
trong xà lim án chém khám lớn Sài Gòn, Lý Tự Trọng oanh liệt sống những ngày
cuối cùng của cuộc đời mình. Mọi chi tiết về người tù án chém “Trọng
con” được những tên gác ngục, tên chủ khám truyền ra ngoài với một lòng
cung kính, khâm phục: “Ông nhỏ ngày nào cũng tập thể dục! Nhìn ông nhỏ
sống không ai tưởng tượng được là người đợi đến ngày lên máy chém”.
Gương mặt Lý Tự Trọng rắn rỏi và kiên nghị. Anh nhớ
lại những ngày thơ ấu trên đất Xiêm, nơi cha mẹ anh vì trốn tránh sự khủng bố
của đế quốc sang ẩn nấu ở bên kia bờ sông Cửu Long và sinh ra anh. Lý Tự Trọng
tưởng như thấy lại các chiến sĩ Cộng Sản Trung Quốc bị Quốc dân đảng phản bội
bắn chết hàng loạt bên bờ sông Châu Giang trên đất Quảng Châu sau ngày Công Xã
Quảng Châu thất bại. Anh nhớ lại có lần cùng với các đồng chí lớn tuổi đi viếng
mồ liệt sĩ Phạm Hồng Thái ở Hoàng Hoa Cương. Người thanh niên yêu nước Phạm
Hồng Thái năm 1926 đã ôm bom vào giết tên toàn quyền Pháp MecLanh ở Tô Giới
Pháp sau nhảy xuống sông Châu Giang để khỏi sa vào tay giặc.
Lý Tự Trọng bồi hồi nhớ lại lần đầu được đặt chân lên
Ô Cấp, được về hoạt động trên đất nước thân yêu, những lúc vùi đầu vào các
trang sách đầy hào hứng những lúc trò chuyện ngắn ngủi với các đồng chí ở cơ sở
nhớ cả lúc bị sa vào tay giặc… Những đòn tra tấn của quân giặc không làm lay
chuyển được ý chí của anh. Trong xà lim án chém, Lý Tự Trọng làm bạn với
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Cuốn này do vợ tên chủ khám biếu. Những
câu thơ lục bát trong sáng, tài hoa của thi hào Nguyễn Du đã quyện lòng anh với
tâm hồn hồn dân tộc.
Lý Tự Trọng yêu đất nước, yêu đồng bào, yêu đồng chí
của mình, anh càng yêu cuộc sống, sống trọn vẹn những năm tháng ngắn ngủi của
đời mình không hề lãng phí, không để mầm bi quan len lỏi vào tâm hồn mình mặc
dù biết mình sắp bị giặc đem hành hình. Bọn thực dân tìm cách lung lạc ý chí
gang thép của anh, nhưng tất cả những lời dụ dỗ của chúng đều bị anh đánh bại.
Bà
Angđơrê Viôlít đã viết về giờ phút cuối cùng của Lý Tự Trọng: “Ngày
21/11/1931 thì Huy (tức là Trọng) bị đem xử tử. Sài Gòn hết sức xúc động. Hôm
ấy phải ra lệnh thiết quân luật. Từ khám lớn vang ra ngoài đuờng phố, tiếng la
hét của tù chính trị. Tiếng thét từ lồng ngực và từ trái tim của họ đã đi theo
Huy ra trường chém. Phải điều quân đội và lính cứu hỏa để phun nước đàn áp họ.
Trong những tường giam của khám lớn đã xảy ra những chuyện như thế. Trước máy
chém, Huy định diễn thuyết, song hai tên sen đầm nhảy xô đến không cho anh nói.
Người ta chỉ nghe thấy tiếng anh kêu “Việt Nam! Việt Nam!”.
Lý
Tự Trọng trước khi lên máy chém mấy lần gọi “Việt Nam” thân
yêu và đã hát nhiều lần bài “Quốc tế ca”: “Vùng lên hỡi các nô
lệ ở thế gian!” và anh đã giữ vững ý chí chiến đấu đến phút chót của đời
mình. Hơn 30 năm sau, ngày 15/10/1964, tại khám Chí Hòa, Nguyễn Văn Trỗi trước
lúc hy sinh lại hô: “Việt Nam
muôn năm!” – “Hồ Chí Minh muôn năm!”
Trên thành phố Sài Gòn anh hùng, những câu nói giản dị
và sâu sắc của những chiến sĩ tiêu biểu ở nhiều thế hệ ấy đã ngân vang từ những
tâm hồn yêu nước nồng nhiệt và ý chí cách mạng kiên cường. Ngày nay, giữa thành
phố Hồ chí Minh, con đường mang tên Lý Tự Trọng, chạy qua nơi anh từng bắn chết
tên mật tám Lơ Gơrăng, anh vẫn như còn đó ở tuổi 17 hiên ngang, với tâm hồn
trong sáng tràn ngập lòng yêu đời…